Năm tôi 10 tuổi, em tôi 4 tuổi, mẹ tôi đã b;;;iến m;;ất khỏi làng. Lúc đó Mẹ tôi b;ỏ chúng tôi đi theo 1 người đàn ông giàu có. Đã 15 năm trôi qua, Có những ngày, tôi nghĩ mình đã th/a th/ứ.
Nhưng có những đêm, chỉ cần nghe tiếng chó sủa ngoài ngõ, ký ức năm ấy lại đ-ập thẳng vào đầu tôi
Tôi còn nhớ, Chỉ một buổi sáng, khi tôi dậy sớm nấu cơm cho em, trên bàn có một tờ giấy nh-ăn nh-eo, nét chữ quen mà lạ:
“Mẹ xin lỗi. Mẹ không thể sống ngh/èo cả đời. Mẹ đi tìm cuộc sống mẹ xứng đáng có.”
Không “yêu các con”. Không “mẹ sẽ nhớ”. Chỉ có thế.
Chiếc buồng nhỏ trống trơn. Quần áo của mẹ b;;iến m;;ất. Nồi niêu vẫn còn nguyên trên bếp. Như thể bà chỉ vừa bước ra ngoài, rồi quyết định… không trở về nữa.
Chiều hôm đó, cả cái làng tôi đã x-ì x-ào:
– Nó theo ông Tư rồi.
– B-ỏ con cái, chạy theo thằng giàu nhất làng.
– Đúng là đàn bà h;am t;iền.
Tôi nghe hết. Và tôi không kh;óc. Tôi không g;ào lên. Tôi chỉ ôm em tôi thật chặt, như thể b;;uông ra là nó cũng sẽ b;;iến m;;ất như mẹ.
Từ hôm đó, tôi thôi làm con nít.
Tôi đi phụ hồ khi mới 11 tuổi. Đôi tay nhỏ xíu bê từng viên gạch to hơn cả cổ tay. Những ngày mưa, đất bám từ cổ xuống gót chân. Có hôm đói quá, tôi đi xin từng nhà một củ khoai. Em tôi ở nhà, tự nhóm bếp nấu cháo loãng. Hai anh em ăn chung một bát, san cho nhau từng thìa.
Hàng xóm thương, nhưng cũng nhìn chúng tôi như hai đứa trẻ bị “dí;;nh l;ời ng;;uyền”. Bởi mẹ tôi từng là người phụ nữ đẹp nhất làng, đảm đang nhất làng. Vậy mà chỉ vì tiền, bà dứt áo b;;ỏ hai đứa con ruột.
Tôi đã từng thề, nếu có ngày gặp lại, tôi sẽ hỏi:
“Mẹ ơi, tiền có ấm hơn con không?”
15 năm trôi qua như một cơn đói kéo dài.
Tôi 25 tuổi, em tôi thi đỗ đại học. Một điều tưởng như phép màu. Nhưng chúng tôi không có tiền cho nó nhập học. Tôi chuẩn bị lên thành phố làm thuê dài hạn, b-ỏ lại ước mơ học hành của em, thì làng tôi xuất hiện một “c;;ơn ch;;ấn đ;;ộng” khác.
Một người đàn ông tên Thái — đại gia khoáng sản, Việt kiều về nước đầu tư — xây biệt thự ngay rìa đồi. Người ta nói tài sản của ông gấp trăm lần ông Tư ngày xưa. Xe sang ra vào như phim. Nhưng điều kỳ lạ là… ông không giao du với ai, không khoe khoang, không tổ chức tiệc tùng.
Việc duy nhất ông hỏi khắp làng, chỉ là một câu:
– Ở đây, có phải từng có hai đứa trẻ bị mẹ b-ỏ rơi không?
Tên chúng tôi được nhắc lên như một cái bóng cũ.
Một buổi chiều, người của ông đến tận nhà tìm. Bảo tôi và em lên biệt thự gặp gấp. Chúng tôi tưởng mình ph;ạm t’ội.
Cổng sắt mở ra cao hơn cả cuộc đời nghèo khổ của hai anh em. Tôi nắm tay em bước vào, chân run như kẻ đứng trước vành móng ngựa.
Ông Thái đứng giữa vườn, dáng cao, tóc muối tiêu, ánh mắt sâu và buồn.
Ông nhìn chúng tôi rất lâu, như muốn khắc gương mặt vào ký ức.
Rồi ông nói một câu khiến tôi tưởng mình nghe nhầm:
– Từ hôm nay, hai đứa là con của ta. Ta sẽ nuôi nấng, cho học hành, cho một tương lai mới. Không vì thương hại. Mà vì ta tin, hai đứa xứng đáng.
Tôi s;ững người. Em tôi đứng sau, nắm áo tôi thật chặt.
Và đúng lúc đó…
Cánh cửa kính phía sau lưng ông mở ra. Một người phụ nữ bước ra…. đó là

MẸ TÔI.
Bà lẩy bẩy khi nhìn thấy chúng tôi. Ly nước rơi xuống nền đá, vỡ t;ung.
– Các… các con… – bà bật khóc như một đứa trẻ.
Tôi mất tiếng. Phổi như bị bóp nghẹt. Bao nhiêu hình ảnh 10 năm dồn về một lúc: đêm tôi sốt nằm run trên nền đất lạnh, em tôi đói lả người, những lần tôi bị người ta xua đuổi vì “con của kẻ bỏ đạo làm người”.
Và giờ… bà đang đứng đây. Trong một căn biệt thự đầy ánh sáng. Nhưng với tư cách là NGƯỜI GIÚP VIỆC.
Ông Thái quay sang nhìn bà:
– Bà giấu quá khứ rất giỏi. Nếu ta không vô tình thấy tờ giấy này trong ngăn tủ của bà… có lẽ cả đời ta cũng không biết.
Ông đưa ra một tờ đơn xin việc cũ, góc đã nhàu. Trong mục: “Người thân”, mẹ tôi đã ghi hai cái tên… của tôi và em trai.
– Bà ấy đến đây làm việc 3 năm nay. Không một lời xin xỏ, không một lời than thân. Nhưng mỗi tháng đều xin nghỉ đúng một ngày, để ra nghĩa địa làng cũ thắp hương cho chồng và… nhìn lén hai đứa từ xa.
Tôi nhìn mẹ.
Con người đã vứt rơi hai anh em tôi như vứt một cái túi rách… giờ đang quỳ dưới chân chúng tôi.
– Con xin lỗi… – bà run run – Ông Tư chỉ cần mẹ khi còn đẹp. Khi mẹ già, ông ta đuổi ra đường như đuổi chó. Mẹ không dám về làng. Mẹ không xứng làm mẹ nữa…
Tôi không đỡ bà dậy.
Tôi cũng không chửi bà.
Tôi chỉ nói, từng chữ như đóng đinh xuống đất:
– Mẹ không mất con vì nghèo.
Mẹ mất con vì mẹ chọn tiền thay vì tình.
Và lựa chọn đó… không có đường quay lại.
Em tôi rút từ trong túi ra một bức ảnh đã nhàu nát. Hai đứa nằm co ro trong một căn lều dột nát, ôm nhau ngủ, mặt lem bùn đất.
Nó đặt bức ảnh trước mặt mẹ, giọng bình thản đến đau lòng:
– Đây là tuổi thơ của tụi con. Mẹ nhìn cho kỹ rồi sống cho tử tế phần đời còn lại.
Bà gục xuống, ôm ảnh mà gào khóc.
Còn chúng tôi quay lưng bước vào căn nhà mà số phận bất ngờ trao lại một lần nữa.
Không phải vì tiền.
Mà vì lần này, chúng tôi được chọn.
Và tôi hiểu ra một điều cay đắng nhất cuộc đời mình:
Có những người sinh ra bạn, nhưng không đủ tư cách làm cha mẹ.
Cũng có những người không máu mủ ruột rà, nhưng cho bạn một cuộc đời mới.
Tôi không biết mẹ tôi còn bao nhiêu năm phía trước.
Nhưng tôi biết một điều:
Bà sẽ phải sống với ký ức về hai đứa con mà bà từng ném đi như rác… và ngày chúng trở về trong vinh quang, bà chỉ có thể quỳ xuống mà nhìn theo.
Còn tôi, từ hôm đó, chỉ tự nhủ:
“Mình sẽ không bao giờ bỏ rơi bất cứ ai… như cách mình từng bị bỏ rơi.”