Gió heo may thổi dọc triền đê, mang theo mùi rạ mới và hơi nước từ con mương lờ lững. Làng Cổ Am vào thu, ngoài ngõ treo cờ hồng, cổng cưới kết bằng tre uốn, cắm đầy hoa mơ hội chợ. Nhà nào đi qua cũng xì xào: “Nhà ông Lý vẫn dựng rạp à?” – “Ừ, bảo làm lễ cưới… mà chú rể vừa mất tuần trước.”
Người ta nói, chưa từng có lễ cưới nào như thế. Nhưng Mai vẫn quyết. Cô bảo:
– Thái đã hứa rước em. Hứa rồi thì giữ. Anh ấy không về được bằng chân, em rước bằng lời.
1. Ngày rạp dựng
Sáng sớm, đàn ông trong xóm ra dựng cột, bạt rạp kéo căng thành những ô xanh đỏ. Ông Lý – bố Thái – mắt thâm quầng, cọc cạch đinh búa. Bà Lý bưng ấm chè gừng, đặt lên bàn, gọi khẽ:
– Các bác uống cho ấm bụng.
Ai cũng ngại nhìn bàn thờ giữa gian nhà: khung ảnh Thái cười, quanh là vòng hoa trắng. Chỉ cách đây bảy ngày, nó còn chở cát ngoài bờ sông; trận mưa dầm, đường trơn, xe trượt, Thái lao xuống vực.
“Đám cưới hoá đám tang.” Người già thở dài. Nhưng Mai mặc áo dài trắng, tóc vấn gọn, vẫn tỉ mẩn têm trầu cánh phượng. Ngón tay cô run, nhưng lá trầu vẫn sắc nét. Bà nội Thái nhìn, hắng giọng:
– Con để bà têm giúp.
– Dạ để con. Con muốn làm nốt lần này.
Ngoài sân, lũ trẻ chạy qua, nghển cổ nhìn cổng hoa. Một đứa hỏi:
– Cô ơi, chú rể đâu?
Mai khựng lại một nhịp rồi cười hiền:
– Chú rể của cô… đi xa. Nhưng chú vẫn nghe thấy.
2. Ba ngày trước lễ
Ngày thứ ba sau khi khâm liệm, Mai mới dám bước vào nhà người thương. Nhà Lý lặng như tro. Bà Lý nhìn thấy con bé, ôm chầm lấy, bật khóc:
– Mẹ xin lỗi, mẹ giữ con không nổi.
Mai quỳ xuống trước di ảnh:
– Anh, nghe em này. Em không huỷ cưới. Mình cưới, nhưng em đứng cả phần anh. Anh yên tâm, em về làm con ông bà, chăm mồ mả tổ tiên như đã hẹn.
Ông Lý ngồi xuống cạnh, giọng khàn:
– Con làm thế, người ta cười.
– Kệ người ta. – Mai đáp, nhìn thẳng. – Con cưới lời hứa của mình.
Ông định nói thêm, rồi ngừng. Nhìn con bé nhỏ xíu, mặt hốc hác, ông bỗng thấy thương quá. Ông gật đầu:
– Ừ. Thì cưới.
3. Tin vỉa hè
Tin lan nhanh như gió bấc. Quán nước đầu đê ồn ào. Một bà nheo mắt:
– Ấy là cưới âm đấy hả?
– Cũng tuỳ. Nhà ông Lý tử tế, con bé cũng chả phải dạng bồng bột. Nó bền như lúa mùa.
– Nhưng… trẻ thế, cưới ai?
– Nó cưới… người nó thương.
Người ta nói, Mai và Thái yêu nhau từ hồi học nghề may dưới thị trấn. Mai khéo tay, Thái tháo vát. Hai đứa chắt chiu mấy năm, mua được mảnh đất, định cưới xong thì dựng nhà vách gỗ. Mai đã may xong áo dài đỏ, em chừa cườm ở cổ cho ngày rước dâu. Nhưng hôm đi chọn lá dong gói bánh, Thái không về nữa.
4. Đêm trước lễ
Đêm ấy, Mai cặm cụi khâu lại cổ áo trắng. Cô bỏ hết hạt cườm đỏ, thay bằng ren trắng mỏng. Bà Hợi – mẹ Mai – ngồi bên, cầm kim phụ:
– Con quyết thật à?
– Vâng. Mẹ đừng sợ người ta nói.
Bà Hợi thở dài:
– Mẹ không sợ người ta. Mẹ sợ con không chịu nổi.
– Con chịu được. – Mai nói nhỏ. – Con không phải điên. Con chỉ muốn làm xong lời hứa.
Bên hiên, mùi lá ổi non át mùi nhang. Con mèo vàng lẩn trong vườn chuối, mắt xanh lục nhìn lửa thắp. Đêm Bắc Bộ như chiếc khăn voan phủ lên làng, mọi thứ hiền và buồn.
5. Buổi sáng lạ lùng
Sáng hôm sau, làng Cổ Am lố nhố người. Con đường xi măng vẫn dẫn qua sân đình, qua ao làng có mấy bông sen muộn. Đội kèn bắt đầu tập những câu “Làng tôi xanh bóng tre…”, rồi chùng xuống những nốt trầm.
Đúng chín giờ, lễ xin dâu bắt đầu. Không ai bưng tráp rượu thuốc như mọi bận. Mai tự bưng một tráp trắng: bên trong đặt bó hoa bách hợp, một đôi giày nam, một chiếc khăn mặt mới. Cô đặt tráp lên bàn thờ nhà mình, vái ba vái. Rồi cô cùng bố mẹ sang nhà trai.
Khi thấy Mai bước vào, cả rạp lặng như tờ. Bà Lý bật khóc. Ông Lý đứng dậy đón:
– Con đến rồi à.
Mai cúi chào, giọng chắc:
– Con đến rước chồng.
Người chủ lễ – ông đồ ở đình làng – lặng một thoáng rồi dõng dạc:
– Lễ hôm nay là lễ kết tóc. Hai đứa trẻ hữu duyên, một người đã sang sông, nhưng tình còn đấy. Làng chứng cho.
Ông lấy sợi chỉ đỏ, một đầu buộc vào cổ tay Mai, đầu kia buộc nhẹ vào bức ảnh Thái. Mai quỳ, tay không run. Bà Lý run.
– Con hứa. – Mai nói, mắt hướng vào khung ảnh. – Hứa coi cha mẹ chồng như cha mẹ ruột. Hứa quét sân, thắp hương ngày giỗ. Hứa giữ ruộng gò ông bà. Hứa thay anh dậy sớm, mang giỏ tre ra chợ phiên bán rau. Khi nào lòng thôi nhói, con sẽ cho phép mình cười lại.
Gió ngoài ngõ thổi mạnh vào rạp, mấy dây bóng bay rung lên lấp lánh. Người ta nghe tiếng ai sụt sùi.
6. Mâm cỗ hai màu
Mâm cưới bày như mọi nhà: gà luộc, xôi gấc, thịt đông, nộm hoa chuối… Nhưng chuông nhà thờ trong xóm lại ngân dài như ngày đưa ma. Người đàn ông đánh kèn vừa ăn cơm vừa lặng đi, mắt đỏ.
Ông Lý nâng chén:
– Cảm ơn bà con. Cảm ơn vì đã cho chúng tôi làm nốt một điều dang dở.
Ai cũng chạm chén, nhưng không ai ồn ào. Bà nội Thái khẽ đặt bên cạnh bát Mai một miếng thịt nạc, lẫn nửa lát trứng:
– Con ăn đi. Con gầy quá, thằng ấy về nó mắng bà.
Mai cúi đầu:
– Vâng, bà.
7. Trăng dưới ao
Đến chiều, lễ rước dâu giản lược thành lễ đưa cô dâu về nhà chồng. Không cồng kèn náo nhiệt, chỉ có một hàng nến dẫn từ sân qua hiên, tới gian giữa. Mai đi chân trần. Cô đặt đôi giày nam vào gầm giường gỗ, như đặt phần bước chân của Thái.
Bà Lý mở hòm gỗ, lấy ra một chiếc nhẫn bạc Thái mua hồi còn học nghề:
– Nó bảo, cưới xong sẽ đổi nhẫn vàng. Thôi, giờ mẹ trao cho con cái này.
Mai giơ tay. Chiếc nhẫn bạc ôm lấy ngón tay gầy. Cô nhìn bàn tay, hít sâu:
– Con xin giữ.
Đêm xuống nhanh. Trên ao làng, trăng vỡ thành những mảnh bạc. Trẻ con nô đùa, người lớn ra về, lặng lặng nhìn cô dâu trắng như một bóng đèn đặt ở hiên. Mấy cô bạn của Mai ngồi ôm nhau, thỉnh thoảng lau mắt.
Nam – bạn thân của Thái – đến cạnh Mai:
– Mày làm tao nể.
– Tao không làm để nể. Tao làm để… không hối tiếc.
Nam gật, đặt xuống cạnh cô một hộp gỗ:
– Thái gửi tao giữ. Bảo hôm cưới đưa mày. Tao định… thôi, mày mở đi.
Mai mở nắp. Bên trong là bản vẽ một căn nhà nhỏ mái ngói liệt, hiên có chỗ mắc võng, tường ốp gạch bát tràng cỡ bàn tay. Ở góc, chữ của Thái: “Nhà chúng mình. Gió Bắc lọt qua cho đỡ ngột.”
Mai cắn môi. Nước mắt rơi lên giấy.
8. Món quà của làng
Hai hôm sau, dân làng kéo đến nhà ông Lý. Người mang cây cau con, người mang dây dưa, người cho đôi gà mái. Đội thợ nề trong xóm đến đo đạc:
– Ông Lý ạ, thằng Thái nó tốt bụng, nó giúp bao nhà đổ mái, hôm nay đến lượt chúng tôi giúp lại. Làm cái hiên cho con Mai ngồi khâu áo trời mưa.
Bà Hợi cũng dọn đồ sang:
– Từ giờ, bên thông gia cần gì bảo tôi. Nhà tôi còn mỗi đứa con gái, không để nó lủi thủi.
Mai đứng ở hiên, áo nâu sồng, tóc buộc cao. Cô xắn tay mang chậu, kêu to:
– Các bác rửa tay ạ! Có nồi chè khoai.
Tiếng cười rộ lên, giòn như hạt thóc rang. Lâu lắm, sân nhà ông Lý mới vui như thế.
9. Hôm giỗ đầu
Một năm sau, làng lại cờ hồng cờ trắng. Nhà ông Lý làm giỗ đầu cho Thái, mà cũng là giỗ cưới của Mai. Cổng treo đôi câu đối ông đồ viết: “Người dẫu vắng, tình còn ở / Cỗ còn thơm, nhà còn hơi.”
Mai dậy từ tinh mơ, bày mâm ngũ quả, lau bàn thờ. Cô lấy chiếc nhẫn bạc ra đánh lại bằng bột tro vỏ trấu. Bà Lý nhìn con dâu son sắc, thở dài hạnh phúc:
– Con gái, con tính thế nào?
Mai cười:
– Con tính… mở tiệm may ở đầu xóm. Con đợi thêm thời gian đã.
Ông Lý chống gậy bước vào:
– Con còn trẻ, bố mẹ không bắt con… giữ suốt đời. Ai thương con thì bố mẹ mừng.
– Con hiểu. – Mai đáp. – Nhưng hôm nay, con muốn giữ mình cho đúng cái hẹn đầu tiên.
Trưa nắng như mật. Giữa bữa, Nam đứng dậy:
– Con xin phép nói. Hồi sinh thời, Thái lập nhóm “Những mái nhà không dột” – đi vá mái giúp mấy cụ già neo đơn. Thái dặn: “Có ngày nào tao đi, chúng mày nhớ làm tiếp.” Hôm nay có Mai ở đây, cho phép bọn con lấy mảnh đất hai đứa định xây nhà để dựng nhà sinh hoạt cho nhóm, đặt tên “Hiên Gió Bắc”.
Mai giật mình, rồi gật nhanh:
– Vâng. Em đồng ý.
Bà Lý nắm tay Mai, thì thào:
– Con cho mẹ khóc lần nữa nhé. Nhưng lần này… khóc vì mừng.
10. Mùa gió mới
Nhà “Hiên Gió Bắc” dựng xong vào cuối năm. Mái ngói đỏ, tường trắng, cửa sổ mở rộng nhìn ra con mương. Bên hiên treo chiếc võng xanh – người già ra nằm, lưng nghe tiếng tre thở. Trẻ con tụ về học vá áo, vá lốp xe, học cắm hoa, học hát chèo.
Mai mở tiệm may nho nhỏ ngay góc hiên. Khách vào chỉ cần nói “cháu muốn áo dài cưới,” cô sẽ hỏi:
– Con thích cổ thuyền hay cổ tròn? Con muốn để lưng gió hay kín cài?
Có người hỏi khẽ:
– Cô Mai, bao giờ cô… cưới lại?
Mai cười mỏng như tơ:
– Khi nào gió đổi chiều.
Đêm cuối năm, làng treo đèn lồng đỏ dọc bờ ao. Mai mặc áo nâu, khoác thêm khăn len. Cô bưng đĩa chè lam lên bàn thờ Thái, châm nén nhang:
– Anh ơi, nhà mình xong rồi. Hiên gió bắc không dột. Em làm đổi nghề cho mấy đứa nhỏ. Mẹ khoẻ, bố ăn được cơm.
Khói nhang quyện gió, hương trầm se se. Cô đặt tay lên khung ảnh:
– Em sẽ đi tiếp. Nhưng đi đến đâu, em cũng mang anh theo bằng một chỗ ngồi trống bên cạnh.
Ngoài hiên, gió bấc gào qua hàng bạch đàn rồi dịu dần như ai vỗ về. Làng Cổ Am chìm trong tiếng mõ chùa và tiếng lợn ụt ịt từ sau vườn. Đêm Bắc Bộ mỏng như tờ giấy dó, in bóng một cô dâu áo trắng đi về phía cánh đồng, không còn khóc nữa.
11. Kết
Lễ cưới năm ấy, người ta kể mãi. Có người coi đó là điều kỳ lạ, có người bảo là “cưới âm”. Nhưng với làng Cổ Am, đó chỉ là lễ giữ lời. Một cô gái trẻ đã lấy chồng bằng cách sống trọn nghĩa với cha mẹ chồng, với mảnh đất của chồng, với những người chồng từng giúp.
Về sau, mỗi khi đi qua “Hiên Gió Bắc,” ai cũng nhìn thấy trên vách gỗ có khắc một dòng chữ nhỏ, nét khắc non mà chắc:
“Hứa rồi thì giữ.”
Và khi gió mùa tràn về, hiên vẫn ấm. Người ta bảo: “Chỗ này có hai người ở, dù chỉ một người ngồi.”
Mai nghe, chỉ cười, cúi xuống may tiếp chiếc áo dài cưới cho một cô gái khác – cổ thuyền, tay lỡ, vạt dài vừa đủ để gió đi qua mà không lạnh.