Mùa đông năm 1995, gió rét cắt da từ dãy Trường Sơn thổi về bản nhỏ ở huyện miền núi Nghệ An. Ông Nguyễn Văn Tài, ba mươi ba tuổi, gầy guộc, bước chân lang thang như mọi ngày. Dân bản gọi ông là “Tài ngơ”, vì từ nhỏ ông bị sốt rét nặng, để lại cái đầu chậm chạp, lời nói lắp bắp. Ông chưa vợ, sống nhờ mẹ già và anh trai, ngày ngày nhặt củi, hái rau rừng.

Hôm ấy, ông thấy một người đàn ông lạ mặt ôm bọc vải cũ đứng giữa bản, giọng khản đặc: “Ai nhận nuôi con bé cho tui, nhà tui nghèo quá, nuôi không nổi…”. Dân bản lắc đầu. Ai cũng nghèo, thêm miệng ăn là thêm gánh nợ. Người lạ cố dúi bọc vải vào tay từng người. Đứa bé trong bọc khóc ré lên vì lạnh.
Ông Tài đứng xa nhìn, rồi chậm rãi bước tới. Ông đưa hai tay ra, không nói gì. Người lạ ngỡ ngàng, nhưng thấy có người nhận liền đặt bọc vào tay ông rồi quay đầu chạy biến xuống núi, sợ ai đó đổi ý.
Dân bản cười ồ: “Trời ơi, Tài ngơ mà cũng đòi nuôi con!”. Có người hét: “Đưa đây, giao cho ông ấy sao được!”. Nhưng đã muộn. Ông Tài ôm chặt bọc vải, mắt sáng lên lạ lùng.
Về nhà, bà mẹ già hoảng hốt: “Con ơi, mẹ già rồi, chăm con đã khó, giờ thêm đứa nhỏ sao nổi?”. Ông chỉ cười ngây ngô, đặt bọc xuống giường, vụng về mở ra. Đứa bé gái đỏ hỏn, khóc ngằn ngặt. Bà thở dài, cuối cùng cũng xuôi tai khi anh trai ông nói: “Thôi, nuôi lớn rồi nó còn chăm ông Tài lúc tuổi già”.
Cô bé được đặt tên Lan, nhập hộ khẩu nhà ông Tài. Từ đó, ông Tài thay đổi. Người đàn ông lang thang ngày nào giờ biết dậy sớm nấu cháo, biết đi làm thuê cuốc đất, gánh củi để có tiền mua sữa, mua áo. Ông cười nhiều hơn, dù vẫn lắp bắp: “Con… con Lan… của ba…”.
Lan lớn lên trong nghèo khó nhưng đầy tiếng cười. Cô bé hiểu chuyện sớm, không ngại cha ngơ, còn hay ôm cổ ông thủ thỉ: “Con thương ba nhất trên đời”. Dân bản cảm động, thỉnh thoảng mang gạo, mang quần áo cũ đến giúp.
Năm Lan mười bốn, bà nội mất. Nhà càng khó. Ông Tài không tự nấu nổi bữa cơm, Lan phải sang ở nhà bác. Nhưng ông vẫn cố đi làm, dành dụm từng đồng cho con đi học. Năm mười bảy tuổi, Lan bỏ học vào Bình Dương làm công nhân. Lần đầu nhận lương, cô gửi về một phong bì dày, nhờ bác đưa cho cha. Ông Tài ôm phong bì ngồi trước hiên, cười mãi không thôi.
Rồi Lan ít gọi về. Cô có người yêu, chuẩn bị cưới. Tết năm 2012, cô dẫn chồng tương lai về bản. Anh bác lo: “Cưới xa thì ai lo cho ông Tài?”. Hai bên thỏa thuận: Lan sẽ đón cha vào Bình Dương sống chung.
Ngày ông Tài theo con xuống đồng bằng, dân bản tiễn dài. Ông ôm từng người, lắp bắp: “Tui… đi với con… Lan…”. Ai cũng nghĩ, cuối cùng ông cũng có chỗ nương tựa.
Nhưng ba năm sau, ông Tài lầm lũi trở về bản một mình. Nhà chồng chịu không nổi lời ra tiếng vào: “Chưa thấy ai rước cả cha vợ về ở chung”. Bố mẹ chồng ra tối hậu thư. Lan khóc, nhưng cuối cùng chọn gửi cha về quê, hứa sẽ gửi tiền hàng tháng.
Lời hứa chẳng thành. Ông Tài về bản, tiền hết dần, bữa đói bữa no. Anh trai gọi vào Bình Dương trách móc thì bị mắng lại. Tết 2018, Lan báo về thăm. Ông Tài mừng đến mất ngủ, dọn nhà sạch sẽ, nấu nồi bánh chưng.
Lan về, nhưng chỉ ghé qua ăn bữa tất niên rồi đi. Ông Tài ngẩn ngơ hỏi: “Con… ở lại với ba… vài ngày… được không?”. Lan lắc đầu: “Con bận, mai con còn về nhà nội”. Hóa ra cô đã nhận lại cha mẹ ruột từ lâu.
Sau Tết, giấy triệu tập tòa gửi đến nhà ông Tài. Lan kiện cha nuôi, yêu cầu chấm dứt quan hệ vì năm xưa không đăng ký đúng luật. Tòa chấp thuận. Từ đó, Lan không còn nghĩa vụ pháp lý, cũng chẳng quay về.
Dân bản phẫn nộ, chửi rủa cô “ăn cháo đá bát”. Anh trai ông Tài thở dài: “Biết vậy ngày xưa đừng nhận, giờ trắng tay”.
Ông Tài không nói gì. Ông ngồi trước cổng bản từ sáng đến tối, ôm tấm ảnh cũ của Lan lúc nhỏ, mắt đượm buồn. Gió núi lại thổi, lạnh buốt như ngày ông ôm đứa bé bị bỏ rơi về nhà.
Người ta hỏi nhau: Nuôi một đứa trẻ là nghĩa hay là nợ? Và khi lớn khôn, đứa trẻ có quyền quên đi bàn tay từng nâng niu mình giữa gió rét núi rừng không?
Câu trả lời, có lẽ chỉ gió núi biết, và ông Tài – người cha ngơ mãi ngồi lặng bên cổng bản.