Năm tôi lên bảy, ba tôi lấy vợ. Mẹ kế tôi tên Hương, mắt sắc lẹm như dao bổ cau. Bà có một đứa con gái tên Hạnh, kém tôi một tuổi. Từ ngày dì về, nhà tôi không còn là tổ ấm nữa.
Mỗi khi ba đi vắng, dì lại thể hiện rõ sự phân biệt đối xử. Một cái kẹo, một chiếc bánh, một món đồ chơi, bao giờ cũng là của Hạnh trước. Quần áo của tôi lúc nào cũng cũ sờn, trong khi Hạnh lúc nào cũng diện những bộ đồ mới, đẹp. Dì nói, “Mày là con trai, mặc sao chẳng được. Hạnh nó là con gái, phải biết làm duyên làm dáng.”
Sự phân biệt không chỉ ở vật chất. Dì mắng tôi vì bát cơm rơi một hạt, trong khi Hạnh làm đổ cả tô canh vẫn được dì vuốt tóc cười: “Con gái mẹ vụng về tí thôi mà.” Tôi học giỏi, giấy khen treo đầy tường, dì chỉ liếc một cái rồi bảo: “Con giai thì phải thế chứ, học dốt thì ai nuôi.” Hạnh học kém, dì vẫn ôm vào lòng: “Con mẹ còn nhỏ, từ từ rồi cũng giỏi thôi.”
Ba biết hết. Nhưng ba chỉ biết thở dài. “Dì mới về, con nhịn dì chút đi con.” Tôi nhịn. Nhịn đến khi đôi dép tổ ong rách toác vẫn phải đi học, nhịn đến khi bụng đói cồn cào vì phần cơm của tôi bị dì bớt cho Hạnh “bồi dưỡng da dẻ”. Nhịn đến khi cái tát của dì vang lên chỉ vì tôi lỡ làm rơi cái ly nhựa cũ.
Năm tôi mười tuổi, cái ngày mưa dầm dề tháng bảy, dì cầm cây roi mây quất tôi túi bụi vì tôi dám cãi lại khi dì bảo tôi nhường cả phần thịt kho tàu cuối cùng cho Hạnh. Ba đi công trình tận Bình Dương, không có ai che cho tôi. Tôi ôm đầu khóc, máu từ khóe môi chảy xuống cổ. Đêm đó, tôi lén lấy cái ba lô cũ, nhét vào hai bộ quần áo, cuốn sách lớp năm và mười nghìn bạc lẻ dành dụm từ tiền ba cho lúc ba về thăm. Tôi trèo cửa sổ sau nhà, chạy băng qua con đường đất đỏ lầy lội, không ngoảnh lại.
Mười ba năm trôi qua.
Tôi hai mươi ba tuổi, đứng trước căn nhà cũ giờ đã xây lại hai tầng sơn màu vàng nghệ. Cánh cổng sắt sơn trắng mở hé. Tiếng cười nói vọng ra từ sân. Tôi bước vào, đôi giày tây bóng lộn dính chút bụi đỏ quen thuộc.
Dì Hương ngồi trên chiếc ghế mây, tóc nhuộm đen nhánh, nhưng đuôi mắt đã chùng xuống, môi mím chặt khi thấy tôi. Bên cạnh dì, Hạnh ngồi bệt dưới đất, bụng bầu vượt mặt, tay ôm đứa con trai tầm ba tuổi đang khóc thút thít. Đứa bé mặc cái áo rách thủng vai, chân trần bám đầy đất.
Ba tôi, già đi nhiều, tóc bạc gần hết, đang ngồi hút thuốc lào, mắt đỏ hoe khi nhìn thấy tôi.
“Thằng… thằng Minh?” Ba lắp bắp, đứng bật dậy, cái ghế đổ kềnh.
Dì Hương đứng lên, môi run run, nhưng vẫn cố giữ giọng: “Mày về làm gì?”
Tôi không trả lời dì. Tôi nhìn Hạnh. Cô ta giờ trông tiều tụy, mắt thâm quầng, tóc rối bù. Đứa bé bên cạnh khóc to hơn, đưa tay về phía Hạnh: “Mẹ ơi đói…”
Hạnh cúi đầu, giọng nhỏ như muỗi: “Chồng chị… nó bỏ theo con khác rồi. Nhà cửa nó cầm cố hết. Giờ chị với con… về nương nhờ mẹ.”
Tôi cười khẩy, bước vào nhà. Trên bàn thờ mẹ tôi vẫn còn đó, ảnh đen trắng, nụ cười hiền. Bụi phủ mờ một góc.
Ba kéo tay tôi: “Con về là tốt rồi. Ba… ba xin lỗi.”
Tôi gỡ tay ba ra, nhẹ nhưng dứt khoát. Tôi nhìn thẳng vào mắt dì Hương.
“Dì còn nhớ cây roi mây không?” Tôi hỏi, giọng rất khẽ.
Dì giật mình, lùi lại một bước, tay vịn vào ghế.
Tôi lấy trong túi ra một phong bì dày, đặt lên bàn.
“Đây là tiền ba gửi con suốt mười mấy năm qua. Con không động đến đồng nào. Giờ con trả lại ba. Và đây…” Tôi lấy thêm một tờ giấy khác, “là giấy tờ căn nhà này. Ba đứng tên, nhưng con đã chuộc lại khoản nợ ngân hàng mà dì vay để cho chồng Hạnh đánh bạc. Từ nay, nhà này là của ba. Còn dì với Hạnh…” tôi ngừng lại, nhìn đứa bé đang nép sau lưng Hạnh, “muốn ở thì ở, nhưng đừng bao giờ động vào đồ của ba nữa. Và đừng bao giờ đánh cháu nó. Vì lần này, người đánh lại sẽ là con.”
Dì Hương tái mặt. Hạnh ôm con khóc nức nở.
Ba tôi ngồi phịch xuống ghế, ôm mặt.
Tôi quay lưng bước ra cửa. Trời chiều đỏ rực như máu.
Trên đường về Sài Gòn, tôi dừng xe bên vệ đường, mở ngăn kéo lấy ra cây roi mây cũ tôi nhặt ở góc nhà ngày xưa, giờ đã khô quắt. Tôi cầm nó một lúc, rồi thả xuống dòng sông đỏ nặng phù sa.
Mười ba năm. Đủ dài để vết thương thành sẹo.
Và cũng đủ dài để tôi học được rằng, có những thứ không cần trả thù.
Chỉ cần sống tốt hơn tất cả bọn họ từng mong đợi là đủ rồi.