Tại hội nghị Giáo dục đại học ngày 18/9 vừa qua, Bộ trưởng Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Kim Sơn cho biết tới đây sẽ có một cuộc sáp nhập các trường đại học, theo đó “khoảng 140 cơ sở đại học công lập đứng trước cuộc đại sắp xếp, giảm rất sâu số đầu mối”.
Ngay sau khi thông tin này được đưa ra, trong giới quản lý và nghiên cứu đại học đã có nhiều tiếng nói trao đổi, thảo luận cũng như tò mò về việc “cuộc đại sắp xếp” sẽ được thực hiện như thế nào. Trong bài viết này, tôi muốn đưa thêm một số thông tin từ góc độ nghiên cứu giáo dục đại học để các nhà làm chính sách, giới đại học và những ai quan tâm tham khảo.
Thứ nhất, việc sắp xếp, sáp nhập lại khu vực giáo dục đại học là một thực tiễn rất thường xuyên xảy ra trên thế giới. Có những cuộc sắp xếp, sáp nhập chỉ ở quy mô nhỏ, diễn ra với một vài trường; lại có những cuộc sắp xếp, sáp nhập diễn ra trên phạm vi toàn quốc, làm thay đổi hẳn bộ mặt giáo dục đại học của một quốc gia.
Ở quy mô nhỏ, có thể kể đến trường hợp sáp nhập Viện Đại học Khoa học và Công nghệ Manchester UMIST với Đại học Manchester Victoria vào năm 2004 để trở thành Đại học Manchester, một trong 3 đại học có quy mô lớn nhất Anh Quốc ngày nay. Một trường hợp khác có thể kể đến là Đại học Sư phạm Đan Mạch được ghép vào và trở thành một khoa thuộc trường Đại học Aarhus vào năm 2007.
Ở quy mô quốc gia, có thể kể đến trường hợp của Nhật Bản trong giai đoạn 2003-2004, cùng với đạo luật “doanh nghiệp hóa đại học công” (National University Corporation Act), nước này đã sáp nhập 100 đại học công lập, giảm xuống còn 87 trường.
Một trường hợp điển hình khác là tại Pháp, từ năm 2013, nước này đưa ra mô hình Cộng đồng các đại học và viện nghiên cứu – Communautés d’Universités et Établissements (COMUE) theo đó các trường đại học và trường lớn ở gần nhau về địa lý có thể ghép vào để trở thành các cụm đại học lớn hơn, qua đó nâng tầm vị trí của các đại học Pháp trên các bảng xếp hạng quốc tế. Tính đến 2021, nước này chỉ còn 8 cụm đại học hoạt động theo mô hình COMUE.
Thứ hai, mục tiêu của các chính sách sắp xếp, sáp nhập đại học công đã được giới nghiên cứu tổng kết, bao gồm: nâng cao hiệu quả hoạt động, mở rộng quy mô giáo dục đại học, tạo ra các cơ sở giáo dục đại học có quy mô và nguồn lực đủ lớn để cạnh tranh trên các bảng xếp hạng đại học trên thế giới, tăng cường tự chủ cho các cơ sở giáo dục đại học ….
Thứ ba, về cách thức triển khai, kinh nghiệm trên thế giới cũng đã chỉ ra 2 cách thức chính: tự nguyện (từ dưới lên) và bắt buộc (từ trên xuống).
Theo đó, với cách tiếp cận thứ nhất, một đề án chung về sáp nhập sẽ được nhà nước đưa ra, và các trường đại học sẽ được khuyến khích tự trao đổi, cùng nhau xin nhà nước tham gia vào đề án, rồi sáp nhập để trở thành một cơ sở giáo dục đại học mới quy mô hơn. Cách thức thứ hai theo hướng ngược lại, nhà nước sẽ chỉ định các trường được sáp nhập và thực hiện theo mệnh lệnh hành chính.
Thứ tư, về mặt vận hành sau khi sắp xếp, sáp nhập, có 2 cách thức tiếp cận. Cách thức thứ nhất là các cơ sở giáo dục đại học sau khi sáp nhập sẽ hòa nhập với nhau hoàn toàn để trở thành một đại học mới, các đơn vị có chức năng tương tự nhập chung vào nhau (ví dụ 2 khoa kinh tế của 2 trường trước sáp nhập được ghép chung để trở thành một khoa kinh tế mới, ở đại học mới).
Cách thức thứ hai, các cơ sở giáo dục đại học sẽ được sáp nhập tương đối cơ học và sẽ có một bộ phận hội sở được thành lập để điều hành, phối hợp chung các cơ sở trước sáp nhập trong một tổ chức mới. Trong các ví dụ kể trên, trường hợp của Đại học Manchester là theo hướng tiếp cận thứ nhất, còn các cụm đại học tại Pháp là theo hướng tiếp cận thứ hai.
Thứ năm, về mặt phương pháp, giới nghiên cứu về quản trị từ lâu đã nghĩ ra nhiều cách tiếp cận, giúp các nhà làm chính sách có thêm thông tin để đánh giá hiệu quả hoạt động của các trường đại học (hay đơn vị công nói chung), từ đó có căn cứ cho việc quyết định là đại học này hoạt động chưa hiệu quả nên cần phải sáp nhập, đại học kia hoạt động hiệu quả có thể tiếp tục vận hành.
Một trong những phương pháp tiêu biểu là phương pháp phân tích bao dữ liệu (Data Envelopment Analysis). Đây là phương pháp dùng toán học (quy hoạch tuyến tính) để so sánh hiệu quả giữa các đơn vị cùng loại như chi nhánh ngân hàng, bệnh viện, trường học… Nó không cần giả định công thức cụ thể, mà dựa vào dữ liệu đầu vào và đầu ra để tìm ra “biên hiệu quả”.
Cá nhân người viết bài này, trong năm 2023 đã cùng một số đồng nghiệp dùng thử phương pháp này để đánh giá thử hiệu suất của một số cơ sở giáo dục đại học Việt Nam trong giai đoạn 2012-2016. Tất nhiên vì điều kiện nghiên cứu hạn chế, dữ liệu không đầy đủ nên kết quả nghiên cứu chỉ có ý nghĩa tham khảo và lý thuyết. Thực tiễn chắc chắn sẽ phức tạp hơn rất nhiều.
Trở lại với chủ trương sắp xếp, sáp nhập hệ thống đại học, tôi thấy bên cạnh những ý kiến ủng hộ, hồ hởi đón nhận cũng có nhiều người quan tâm, thậm chí có phần tâm tư, lo lắng. Nhưng suy nghĩ một cách thấu đáo, tôi cho rằng cuộc đại sắp xếp này là cần thiết. Lịch sử phát triển của các quốc gia hiện đại trên thế giới đều ghi nhận vai trò rất quan trọng và trung tâm của giới đại học. Phát triển dựa vào đại học thậm chí còn là triết lý phát triển ở nhiều nơi trên thế giới. Chúng ta cùng hy vọng trong thời gian tới, hệ thống đại học tại Việt Nam sẽ thực sự lớn mạnh và vươn mình cùng đất nước.
Tác giả: TS Phạm Hiệp là nhà nghiên cứu giáo dục đại học và chính sách khoa học. Năm 2022, ông nhận giải thưởng thường niên dành cho nhà khoa học xuất sắc của Hiệp hội Giáo dục so sánh và quốc tế – Mạng lưới Du học và Sinh viên Quốc tế (Comparative and International Education Society – The Study Abroad and International Student).